Tọa đàm “Cần cơ chế “trợ lực” để xây dựng ngành công nghiệp tự chủ” được Báo Công Thương tổ chức sáng nay sẽ mang tới góc nhìn sâu hơn về phát triển công nghiệp.
Kính thưa quý vị!
Qua chia sẻ của các vị diễn giả, có thể khẳng định, ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tránh bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi mục tiêu công nghiệp hóa, lấy công nghiệp chế biến chế tạo làm trọng tâm, song song với đó, phát triển hiệu quả các ngành dịch vụ phân phối và dịch vụ cho các nhà sản xuất để tạo động lực kép thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong đề án Tái cơ cấu ngành Công Thương phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững giai đoạn năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng khẳng định, phát triển công nghiệp chính là tạo thị trường cho các ngành dịch vụ phát triển. Do vậy, nguồn lực xã hội nên tập trung vào việc xây dựng và nâng cao năng lực, năng suất cho các doanh nghiệp công nghiệp trong nước, hình thành và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp mạnh, các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong nước có đủ năng lực cạnh tranh toàn cầu. Đồng thời, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi để các doanh nghiệp công nghiệp trong nước có thể lớn mạnh, tạo ra giá trị gia tăng trong nước lớn hơn, kết nối được với khu vực đầu tư nước ngoài và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Với mục tiêu giải pháp trên sẽ thúc đẩy ngành công nghiệp Việt Nam phát triển nhanh và bền vững. Đây chính là tiền đề quan trọng góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước có công nghiệp hiện đại.
Một lần nữa, xin cảm ơn các vị khách mời đã nhận lời tham gia chương trình
Xin cảm ơn sự theo dõi của quý vị!
Xin chào và hẹn gặp lại!
Thưa ông Phan Đức Hiếu thực hiện tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã ngày càng hướng vào lõi công nghiệp hóa. Ông có thể nêu ngắn gọn về vấn đề này?
Ông Phan Đức Hiếu- Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội
Tôi cũng bổ sung thêm đề xuất chính sách mà Bộ Công Thương đang xây dựng, tôi cho rằng, trong đề án chính sách đó có lẽ trong phần phạm vi tiếp cận vấn đề có thể cân nhắc đến các vấn đề, chính sách cụ thể.
Đơn cử như trong Luật Phát triển công nghiệp thì có thể nghiên cứu thêm dự liệu cho cả những chính sách được ban hành sau khi có Luật. Thậm chí phải tính đến cả nguyên tắc phối hợp ban hành chính sách để có thể đảm bảo tính nhất quán mà chúng ta đã xác định.
Bên cạnh đó, khi nói về các chính sách ưu đãi, có lẽ phải tính toán đến nội dụng mà tôi rất mong muốn, một là công cụ, đặc biệt từ câu chuyện của doanh nghiệp, cách thức mà chúng ta thực hiện ưu đãi, nên tránh việc hành chính hoá, tạo ra những rào cản mà nên sử dụng những công nghệ những cách thức rất thị trường, nên ưu đãi theo kết quả đầu ra. Ví dụ như chúng ta muốn thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát minh sáng chế thì chúng ta có thể triển khai theo hai cách: Một là hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư để nghiên cứu tạo ra phát minh sáng chế, và để tránh việc lạm dụng phải đặt ra các tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục hành chính để xem tiền đầu tư có tạo ra được sản phẩm giá trị hay không?
Hai là chúng ta có thể đầu tư theo ưu đãi cam kết đầu ra. Cách thức, công cụ thị trường, cách thức tiếp cận theo hướng đầu ra. Còn về cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trước đây chúng ta đã có đề án tái cơ cấu nền kinh tế, mục tiêu, nhiệm vụ trong đó có cơ cấu lại ngành công nghiệp. Trọng tâm là cơ cấu lại các ngành theo hướng hiện đại, phát triển xanh, tuần hoàn, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế ngành công nghiệp. Trong đó tập trung chủ yếu vào xu hướng không thể thay thế là đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong ngành công nghiệp, tất cả những đề xuất này của Bộ Công Thương gọi đều là thể chế hoá chủ trương, đường lối mà Đảng và Quốc hội đã đề ra.
Ngoài ra, chúng ta cần tận dụng tối đa thành tựu của cuộc cách mạnh công nghiệp 4.0, bởi nhờ đó đã làm thay đổi cơ bản phương thức sản xuất nhằm nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả cả về mặt sử dụng các nguồn tài nguyên đầu vào.
Và cũng cần nhấn mạnh đến một số ngành công nghiệp trọng điểm mang tính chất nền tảng, đẩy mạnh một số ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghiệp mới, công nghiệp cao, công nghiệp hỗ trợ song song phát triển những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng.
Tuy nhiên, một trong những điểm cần lưu ý, đó chính là cần tăng cường sự liên kết, gắn kết giữa các doanh nghiệp. Đây là những điểm trung tâm cần bám sát, nhằm tiếp tục thể chế hoá khi đề xuất xây dựng cơ cấu lại ngành công nghiệp.
Thưa ông Tuấn, được biết, hàng năm Vina Electric đã sản xuất từ 3 – 5 triệu sản phẩm tới thị trường, trong tương lai Vina Electric sẽ tiếp tục mở rộng quy mô của công ty, không ngừng học hỏi, hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài để đưa ra các sản phẩm ngày càng hiện đại, chất lượng cao. Cụ thể, ông có thể thông tin thêm về kế hoạch của doanh nghiệp trong giai đoạn tới?
Công ty Vina Electric cũng định hướng là hãng sản xuất thiết bị điện phục vụ ngành điện lực Việt Nam trên đường dây cao thế, trung thế, hạ thế, và các phụ kiện khác lên tới từ 24kV lên tới 500kV. Các sản phẩm này đều là sản phẩm kỹ thuật cao, và để đưa được những sản phẩm này lên lưới truyền tải điện Việt Nam là một quá trình hàng ràng kỹ thuật trong nước;
Hiện tại, Công ty Vina Electric cũng đã hợp tác với các chuyên gia kỹ thuật trong nước và quốc tế như Đức, Italia,… để chuyển giao công nghệ mới và hợp tác với các chuyên gia nhằm tạo điều kiện thúc đẩy đưa sản phẩm của doanh nghiệp được ứng dụng vào đường điện hạ thế, trung thế và cao thế trên cả nước. Do ứng dụng công nghệ tiên tiến và các sản phẩm chất lượng cao nên cũng đòi hỏi trình độ nhân lực là rất lớn và chất lượng cao để có thể sử dụng và tiếp quản ngay những công nghệ này.
Được biết, Bộ Công Thương sẽ kiến nghị Chính phủ xây dựng những khu, cụm liên kết ngành quy mô lớn để thu hút đầu tư cũng như xây dựng chuỗi sản xuất công nghiệp. Đồng thời, Bộ sẽ đề xuất chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các lĩnh vực công nghiệp để khắc phục những hạn chế, yếu kém. Với nội dung này, doanh nghiệp của ông (bà) đã chuẩn bị kế hoạch cụ thể nào để có thể hình thành và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp mạnh?
Hiện tại Công ty Cổ phần Vina Electric có quỹ đất để mở rộng thêm nhà máy, và hiện nay đang xây dựng thêm nhà máy sản xuất cáp điện cho ngành điện lực, phối hợp với các nhà máy chế tạo trên thế giới. Công ty Cổ phần Vina Electric cũng có định hướng phát triển thành Tập đoàn lớn trong tương lai tạo điều kiện đóng góp sự phát triển kinh tế cho đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, Công ty Cổ phần Vina Electric cũng mong muốn các cơ quan ban ngành và Chính phủ cần có sự đầu tư nguồn lực rất lớn, đầu tư về tiềm lực, nguồn vốn để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao phục vụ nhu cầu ở trong nước.
Nếu như sản xuất được tại thị trường Việt Nam cho người Việt Nam thì giá thành sẽ rẻ hơn, sẽ tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế; Ngành công nghiệp điện như hiện nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào trong ngành sản xuất thiết bị điện tạo hiệu ứng Kỳ lân để dẫn dắt đứng đầu thành lập chuỗi để cung ứng thị trường trong nước. Doanh nghiệp cũng rất mong chờ vào chính sách của Bộ Công Thương để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Theo ông Bùi Văn Tuấn, Bộ Công Thương cần có thêm những chính sách hỗ trợ gì để hỗ trợ ngành công nghiệp đặc biệt là đối với doanh nghiệp, và ông có kiến nghị, đề xuất nào?
Ông Bùi Văn Tuấn, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vina Electric
Theo tôi, Bộ Công Thương đã có rất nhiều chính sách, tôi mong muốn các cơ quan nhà nước khi xây dựng chính sách cần xác lập mục tiêu cụ thể hơn: ban hành cho ai, đối tượng doanh nghiệp? Các chính sách tạo ra sự công bằng cho doanh nghiệp và sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp “giỏi múa thì hát kém và ngược lại”.
Thêm một câu hỏi với ông Tuấn, chúng ta đang bàn tới nội dung về xây dựng ngành công nghiệp tự chủ, về phía Công ty Vina Electric chúng tôi được biết là hãng sản xuất thiết bị điện tại Việt Nam, do người Việt Nam làm chủ công nghệ và tiên phong nghiên cứu, phát triển để ứng dụng những sản phẩm hữu ích và chất lượng cao phục vụ trên lưới điện quốc gia lên tới 500kV. Ông có thể chia sẻ về sản phẩm của doanh nghiệp?
Công ty Vina Electric là hãng sản xuất thiết bị điện phục vụ ngành điện lực Việt Nam trên đường dây cao thế, trung thế, hạ thế, và các phụ kiện khác lên tới từ 24kV lên tới 500kV. Vina Electric hiện nay là đơn vị tiên phong trong khu vực ứng dụng công nghệ Silicone vào trong sản xuất, công nghệ Silicone là một trong những công nghệ tiên tiến: Trọng tâm của Vina Electric là nghiên cứu ra các dòng sản phẩm mới có tính ứng dung cao, giúp tiếp kiệm năng lượng; Chú trọng chất liệu có nguồn gốc, đến từ các hãng thương hiệu nổi tiếng.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hợp tác với các đối tác, doanh nghiệp, các trường Đại học như: Đại học Điện lực, Đại học Bách Khoa,… để chuyển giao công nghệ, hợp tác, nghiên cứu vì các trường đại học là nơi đào tạo sinh viên, kỹ sư lành nghề.
Việc xây dựng và ban hành Luật Phát triển công nghiệp được kỳ vọng sẽ tạo sự đồng bộ và tính liên kết; huy động tối đa nguồn lực phát triển, tạo sự đột phá để góp phần hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước? Ông có gợi mở nội dung này?
Ông Phan Đức Hiếu- Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội
Tôi rất hoan nghênh sáng kiến của Bộ Công Thương trong việc xây dựng đề án, đề xuất chính sách về phát triển công nghiệp một cách cụ thể. Đây là điều rất cần thiết và quan trọng trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là sự cần thiết và mang tính cấp bách.
Tuy nhiên, đây là mục tiêu rất khó, vì những chính sách cũ đã tích tụ trong một thời gian dài và có những khoảng trống nhất định, theo đó, lần này, Bộ Công Thương đã tiếp cận với chiến lược nhất quán. Ví dụ như chiến lược về đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, phát triển xanh…
Về giải pháp cụ thể, vẫn còn nhiều băn khoăn, chương trình phải đưa ra nội dung hoàn toàn mới, thậm chí phải thay thế chính sách hiện nay, nếu như không phải tổng thể sẽ là những lát cắt bổ sung, và theo tôi, bổ sung cũng khó có thể giải quyết được một cách toàn vẹn.
Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi của chính sách, chúng ta cũng cần lưu tâm đến các ý kiến của doanh nghiệp khi thiết kế chính sách. Bên cạnh đó, chúng ta cần nhìn vào tính vĩ mô, tính khả thi, tính thiết thực, đảm bảo đáp ứng được mong mỏi của các đối tượng, đảm bảo công bằng của các doanh nghiệp. Nếu không đáp ứng được điều này, không tạo ra được công bằng, thì thậm chí sẽ tạo ra hiệu ứng ngược trong cạnh tranh.
Vì vậy, hiện Bộ Công Thương đang có những dự thảo thì phải tính đến phạm vi điều chỉnh cả về mặt thiết kế chính sách và thực thi nhằm đảm bảo các chính sách thiết kế ra đúng, trúng đối tượng và đặc biệt kịp thời.
Với những vấn đề còn tồn tại nêu trên của ngành công nghiệp nếu không được giải quyết, năng lực cạnh tranh của Việt Nam sẽ không được cải thiện. Việt Nam sẽ khó đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp, nước phát triển như mục tiêu đặt ra. Thưa ông giải pháp của Bộ Công Thương trong thời gian tới?
Thêm một câu hỏi cho ông Ngô Khải Hoàn, không có nước phát triển công nghiệp nào mà không có một đạo luật về phát triển công nghiệp, trong khi đó nước ta đã định hướng xây dựng sự nghiệp công nghiệp hóa suốt nhiều năm mà chưa có đạo luật về công nghiệp, do vậy việc xây dựng Luật Phát triển công nghiệp là rất cần thiết?
Ông Ngô Khải Hoàn- Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp
Hiện nay, Bộ Công Thương đang tham gia xây dựng nhiều chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hóa và phát triển công nghiệp, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tại Nghị quyết Đại hội XIII. Trong đó, quan trọng nhất là tham gia xây dựng Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; và nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển công nghiệp.
Trong quá trình nêu trên, Bộ Công Thương sẽ tham mưu để Đảng, Quốc hội, Chính phủ xem xét ban hành các chính sách lớn về phát triển công nghiệp, với các định hướng lớn như sau:
Thứ nhất, xác định rõ tầm quan trọng của phát triển công nghiệp trong quá trình hiện đại hóa đất nước, từ đó tập trung các nguồn lực của quốc gia để phát triển công nghiệp, lấy công nghiệp làm đòn bẩy kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Thứ hai, xác định rõ các tiêu chí về công nghiệp hoá để làm căn cứ xây dựng các mục tiêu cụ thể và lộ trình rõ ràng cho giai đoạn tới.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan Nhà nước về phát triển công nghiệp, trong đó cần nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quá trình công nghiệp hóa, kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về phát triển công nghiệp ở Trung ương và địa phương.
Thứ tư, xây dựng các các chính sách phát triển công nghiệp với trọng tâm hướng vào thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp lớn tiềm năng và hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 98% số lượng doanh nghiệp trong nước. Tập trung các nguồn lực để thúc đẩy hình thành các Tập đoàn công nghiệp tư nhân lớn, đóng vai trò dẫn dắt hệ thống doanh nghiệp công nghiệp nội địa và vươn ra thị trường khu vực.
Liên quan đến Luật phát triển công nghiệp, theo tôi, trong giai đoạn tới, để công nghiệp trở thành động lực phát triển kinh tế, tạo việc làm và góp phần hoàn thành các mục tiêu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đặt ra đến năm 2030 và 2045, Việt Nam cần có hệ thống giải pháp, chính sách đồng bộ, thống nhất từ lý luận đến thực tiễn để huy động nguồn lực và phát huy thế mạnh cho phát triển công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp trên thị trường toàn cầu. Do đó, cần thiết phải xây dựng Luật Phát triển công nghiệp.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành tại Văn bản số 3289/VPCP-PL ngày 27/5/2022 của Văn phòng Chính phủ, Bộ Công Thương đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, làm rõ các vấn đề được nêu tại Công văn số 974/TTKQH-PL ngày 12/5/2022 của Tổng Thư ký Quốc hội, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Phát triển công nghiệp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Hiện Chính phủ hiện đã thông qua Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật. Bộ Công Thương hiện đang tiến hành tiếp thu, giải trình ý kiến các cơ quan của Quốc hội để tiếp tục hoàn thiện Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Phát triển công nghiệp, báo cáo Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, bổ sung vào Chương trình xây dựng luật giai đoạn 2023 – 2024.
Từ phân tích của chuyên gia kinh tế, chính sách phát triển công nghiệp còn bất cập, chưa xác định đúng vai trò của doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân trong thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp. Cụ thể đối với doanh nghiệp của ông đã gặp khó gì về mặt chính sách?
Các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp. Đối với Công ty Cổ phần Vina Electric khi tìm đọc thông tin liên quan đến chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp trên các trang thông tin của Bộ, ngành liên quan rất khả thi và có hiệu quả, tuy nhiên khi tiếp cận các chính sách này thì rất khó khăn.
Để giúp doanh nghiệp có thêm tiếng nói thông qua của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương gửi những chính sách đó thông qua các hội và Hiệp hội của các doanh nghiệp để có tiếng nói của các Hiệp hội và các doanh nghiệp việc tiếp cận các chính sách được tốt hơn nữa.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp hiện nay rất mong các chính sách cần kịp thời, giảm các hàng rào thủ tục hành chính và đi sâu hơn nữa vào các doanh nghiệp, không chỉ doanh nghiệp lớn mà cả doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tại Việt Nam, chính sách ưu đãi và các biện pháp hỗ trợ phát triển công nghiệp trong hệ thống pháp luật hiện hành không thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Nhà nước về công nghiệp hoá. Chính sách phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên chỉ được thể hiện nhạt nhoà trong vố số các ngành ưu tiên khác, không có các công cụ chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển công nghiệp, ông (bà) có thể phân tích cụ thể hơn về thực trạng này?
Ông Phan Đức Hiếu- Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội
Trước hết, nhìn vào các chương trình chính sách lớn của Đảng và Nhà nước chúng ta thấy, hiện có rất nhiều chính sách đã được ban hành liên quan đến phát triển công nghiệp. Ở đâu đó, một số chính sách có phát huy tác dụng, nhưng so với kỳ vọng của xã hội, cũng như sự đóng góp cho nền kinh tế của chúng ta vẫn chưa đạt như mong muốn.
Về tổng thể, nguyên nhân ở cả hai phía, một từ việc thiết kế chính sách, ban hành chính sách, nội dung chính sách và hai là thực thi chính sách. Vì có thể chính sách đó ra đời được đánh giá tốt, song chính sách đó, ưu đãi đó có đến được, đến kịp thời, toàn diện, đúng đối tượng không lại là vấn đề khác.
Về thiết kế chính sách, chúng ta có nhiều chính sách nhưng cách tiếp cận chính sách hiện khá đa dạng, thiếu đi chiến lược tổng thể, trong đó ngành công nghiêp cũng gặp phải tình trạng tương tự. Xét về tổng thể, hiện chúng ta có nhiều chính sách hỗ trợ trong ngành công nghiệp như các chính sách về công nghiệp chế biến chế tạo, năng lượng, dệt may, hay như chính sách đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, nếu thiếu đi tính thiết kết, phối hợp, điều hoà chính sách một cách tổng thể thì sẽ dẫn đến nguy cơ trồng chéo, và có những khoảng trống. Vậy câu hỏi đặt ra, mục tiêu cuối cùng của chính sách đã hiệu quả hay chưa?
Gần đây Bộ Công Thương đã trình một số chính sách và đâu đó thể hiện sự bài bản về phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả thực thi thời gian tới, Bộ Công Thương cần quan tâm đến thiết kế chính sách và thực thi. Đặc biệt, cần chủ động cách thức thông tin, tiếp cận, giải đáp thắc mắc kịp thời đối với các đối tượng, có như vậy mới nâng cao hiệu quả thực thi chính sách.
Có một thực tế liên quan đến các chính sách phát triển công nghiệp, phần lớn các địa phương còn rất thụ động trong việc triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp quốc gia. Thậm chí, nhiều địa phương còn có các chủ trương, chính sách chưa phù hợp với chủ trương của Trung ương về phát triển các ngành công nghiệp. Nguyên nhân do đâu thưa ông (bà)?
Ông Ngô Khải Hoàn- Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp
Tôi nhất trí với ý kiến của doanh nghiệp vừa nêu, chúng ta đã có những chiến lược, chính sách phát triển công nghiệp nhưng vẫn chưa phát triển như mong muốn.
Có một thực tế, nhiều địa phương còn chậm trễ trong triển khai xây dựng chương trình hành động thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng có liên quan trực tiếp đến công nghiệp hóa, phát triển công nghiệp; nội dung triển khai thực hiện tại nhiều địa phương còn hình thức, chưa thường xuyên điều chỉnh kịp thời. Tổ chức thực hiện còn phân tán, thiếu đầu mối quản lý tổng thể; còn tư duy nhiệm kỳ. Công tác dự báo và hoạch định chính sách phát triển công nghiệp ở nhiều địa phương chưa theo kịp với thực tiễn. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ quản lý, tham mưu tổ chức thực hiện các định hướng chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, vẫn chịu ảnh hưởng lớn của tư duy quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp; bộ máy quản lý tại địa phương còn mỏng, năng lực còn hạn chế.
Sau khi các Nghị quyết của Đảng về công nghiệp hóa và phát triển công nghiệp được ban hành, các định hướng này được thể chế hoá ở mức rất hạn chế, hiệu quả rất thấp dẫn tới các cơ quan liên quan chưa bố trí nguồn lực để thực hiện. Nguyên nhân cho tình trạng trên là bởi chưa có sự phân công, phân nhiệm cụ thể trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước – đặc biệt là chính quyền địa phương – trong việc thực hiện chủ trương này, chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực thi đường lối của Đảng về phát triển công nghiệp.
Trước những áp lực mà Bộ Công Thương cũng như chuyên gia kinh tế vừa chia sẻ, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận, hiện chưa có nhiều doanh nghiệp công nghiệp mang tính chất dẫn dắt “sếu đầu đàn”. Vậy về phía doanh nghiệp, theo ông, đâu là những thách thức mà doanh nghiệp gặp phải?
Những khó khăn của các doanh nghiệp trogn nước hiện đang gặp rất nhiều khó khăn nhưng hiện tại Đảng và nhà nước ta đang có rất nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới. Tuy nhiên công nghệ mới cũng có các chi phí đầu tư về công nghệ rất lớn, không phải doanh nghiệp nào cũng tiếp cận được. Bên cạnh đó cần phải có doanh nghiệp “sếu đầu đàn” rõ ràng.
Đơn cử như Công ty Cổ phần Vina Electric là hãng sản xuất thiết bị điện, nhưng còn thiếu các nhà sản xuất linh kiện trong nước, phải nhập khẩu ở nước ngoài khiến chi phí gia tăng, từ đó tác động không nhỏ trong việc cạnh tranh trên thị trường ngành điện với các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, về cơ chế chính sách của nhà nước tạo sự đồng hành cho doanh nghiệp, có sự ưu đãi, sàng lọc doanh nghiệp thật sự cần để doanh nghiệp bứt phá lên.
Chúng ta đã có mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, nền tảng, nhưng những kết quả đạt được đến thời điểm này vẫn còn hạn chế, dưới góc độ chuyên gia kinh tế, ông chia sẻ gì về nội dung này?
Ông Phan Đức Hiếu- Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội:
Tôi nhất trí ý kiến của anh Hoàn, những hạn chế của ngành công nghiệp, chế biến chế tạo có thể khái quát chung, quy mô tốc độ tăng trưởng phát triển công nghiệp, tốc độ phát triển công nghiệp của chúng ta hiện nay vẫn chưa đạt như kỳ vọng.
Ngoài ra, một số hạn chế yếu kém mang tính chất cố hữu tồn tại trong thời gian dài chưa thoát ra được, nhất về mặt chất lượng của chúng ta so với các doanh nghiệp FDI hiện đang ở công đoạn thấp, chưa kể mang tính toàn cầu. Đặc biệt, giá trị gia tăng mang lại hiện cũng rất thấp. Một điểm rất rõ nét phát triển công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển như kỳ vọng.
Như báo cáo của Bộ Công Thương gần đây đã cho thấy, sự liên kết, chất lượng, rồi trình độ công nghệ của doanh nghiệp hiện còn chậm đổi mới, sân chơi cho các doanh nghiệp trong nước đang rất nhiều hạn chế so với doanh nghiệp FDI. Phần lớn doanh nghiệp của chúng ta vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu, trang thiết bị máy móc hiện đại chưa phổ biến, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó, rõ ràng có thể thấy, cả về mặt quy mô và tốc độ tăng trưởng, chúng ta đang có những điểm cố hữu chưa thể khắc phục và cần kịp thời khắc phục trong thời gian tới.
Tọa đàm “Cần cơ chế “trợ lực” để xây dựng ngành công nghiệp tự chủ” có sự tham gia của các khách mời: Ông Phan Đức Hiếu- Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội; Ông Ngô Khải Hoàn- Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp– Bộ Công Thương; Ông Bùi Văn Tuấn, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vina Electric.
Qua 35 năm kiên trì thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo chủ trương của Đảng, công nghiệp Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định: Công nghiệp chế biến, chế tạo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế, với mức đóng góp trong GDP tăng từ 13% năm 2010 lên 16,7% năm 2020.
Năng lực cạnh tranh công nghiệp đã được cải thiện đáng kể, Báo cáo cạnh tranh công nghiệp của UNIDO đã đưa Việt Nam từ nhóm “các nền kinh tế đang phát triển” lên nhóm “các nền kinh tế công nghiệp “mới nổi”. Công nghiệp cũng trở thành ngành có tỷ lệ đóng góp lớn nhất đối với ngân sách nhà nước, và cũng là ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng trưởng ở mức cao, góp phần tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tuy vậy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn vừa qua vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần được nhận diện và tháo gỡ. Các khách mời đã có những trao đổi thẳng thắn về vấn đề này.
Thời gian qua ngành công nghiệp đang phát triển mất cân đối. Chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào khu vực FDI. Công nghiệp nặng là ngành quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhưng những năm qua đóng góp cho nền kinh tế rất thấp. Ông (bà) có đánh giá cụ thể?
Ông Ngô Khải Hoàn- Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp
Nhìn lại quá trình phát triển công nghiệp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập thời gian qua cho thấy, ngành này đã đạt được những kết quả tương đối toàn diện, góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội chung của cả nước, tạo dựng vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Tính chung 9 tháng năm 2022, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 9,63% so với cùng kỳ năm trước (quý 1 tăng 7,16%; quý 2 tăng 9,51%; quý 3 tăng 12,12%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69% (quý 1 tăng 7,85%; quý 2 tăng 11,07%; quý 3 tăng 13,02%), đóng góp 2,74 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Tuy nhiên có thể nhìn nhận, công nghiệp Việt Nam phát triển mất cân đối nghiêm trọng, phụ thuộc lớn vào các yếu tố bên ngoài, thể hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất, công nghiệp nặng là ngành tạo ra nền tảng vật chất cho nền kinh tế và xã hội, là động lực quan trọng nhất thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhanh và bền vững – chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế.
Thứ hai, Sản xuất trong nước phụ thuộc phần lớn vào linh phụ kiện, nguyên vật liệu nhập khẩu khiến giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp nội địa rất thấp; đồng thời dễ bị tổn thương trước những biến động về chính trị – kinh tế – xã hội trong và ngoài nước. Trong cơ cấu giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, giá trị gia tăng từ các yếu tố bên ngoài vẫn chiếm tỷ lệ lớn, trong khi tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa vẫn còn thấp và chưa có nhiều chuyển dịch đáng kể.
Thứ ba, tác nhân chính để tạo ra chuyển dịch cơ cấu và giá trị trong công nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp FDI chứ không phải là các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt, các doanh nghiệp 100% vốn FDI đang đóng vai trò chủ đạo trong xuất khẩu và tăng trưởng của Việt Nam. Mối liên hệ, kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước lỏng lẻo, không tạo ra tác động lan tỏa giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước, dẫn đến tình trạng “một quốc gia, hai nền kinh tế” (khu vực FDI và khu vực trong nước).
Nguồn: Báo Công thương